Lạng Sơn: Chính sách dân tộc tạo chuyển biến mạnh mẽ, giảm gần 3% hộ nghèo mỗi năm
Những năm gần đây, việc triển khai đồng bộ các chính sách phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã tạo động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế – xã hội tỉnh Lạng Sơn, đồng thời cải thiện rõ nét đời sống của bà con nơi đây.
Lạng Sơn là tỉnh có trên 83% dân số là người dân tộc thiểu số, gồm Nùng, Tày, Dao, Sán Chay, Hoa, Mông… Vì vậy, các chính sách dân tộc luôn được tỉnh xác định là nhiệm vụ trọng tâm, tác động trực tiếp đến mục tiêu phát triển bền vững.
Ông Phạm Đức Huân – Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Lạng Sơn – cho biết: Sau hơn ba năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, diện mạo nhiều địa bàn vùng cao đã thay đổi tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm đều qua từng năm, bình quân gần 3%/năm; đồng thời đã có 20 xã khu vực III vươn lên thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.
Trên thực tế, Lạng Sơn là địa phương có ít quỹ đất sản xuất, đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống ở khu vực rừng núi hiểm trở. Sản xuất nông nghiệp lại thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai như hạn hán, giông lốc, băng giá, sương muối… khiến đời sống người dân gặp nhiều trở ngại.
Chính vì vậy, các chính sách hỗ trợ sinh kế trong chương trình mục tiêu quốc gia được tỉnh triển khai theo hướng rất sát thực tiễn, ưu tiên việc tạo việc làm, mở rộng sản xuất và hỗ trợ vốn vay.
Đến nay, chương trình đã hỗ trợ 1.079 đối tượng vay vốn với tổng số tiền hơn 503 tỷ đồng, trong đó ngân sách Nhà nước hỗ trợ lãi suất gần 56 tỷ đồng. Bên cạnh đó, tỉnh còn phân bổ 1,784 tỷ đồng để hỗ trợ mở rộng thị trường cho các chủ thể sản xuất tại 10 huyện, thành phố.
Đáng chú ý, 132 hợp tác xã mới đã được thành lập, tạo nền tảng để phát triển kinh tế tập thể – một hướng đi phù hợp với đặc thù của đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhờ các chính sách hỗ trợ, sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa tại Lạng Sơn đã có bước tiến dài. Toàn tỉnh hiện duy trì 58 chuỗi liên kết trong sản xuất – tiêu thụ nông sản, giúp nông dân yên tâm mở rộng sản xuất.
Tại huyện Lộc Bình, mô hình chăn nuôi gà 6 ngón thương phẩm là ví dụ nổi bật. Anh Lý Minh Hiếu – Giám đốc HTX Thành Lộc – cho biết, HTX đã liên kết với 4 HTX khác để tổ chức chăn nuôi theo chuỗi. Các HTX thành viên được hỗ trợ con giống, kỹ thuật, quy trình chăm sóc và được bao tiêu toàn bộ sản phẩm.
Mỗi hộ nuôi từ 500 đến 1.000 con gà, sau khoảng 9 tháng có thể thu lãi từ 60–100 triệu đồng. “Mô hình này giúp bà con có thu nhập ổn định, không còn lo rủi ro về đầu ra,” anh Hiếu chia sẻ.
Tương tự, tại huyện Chi Lăng – thủ phủ na của tỉnh – chuỗi liên kết trồng na do HTX Nông sản Chi Lăng phát triển đã mở rộng lên 70 ha, giúp nâng cao chất lượng và giá trị đặc sản địa phương.
Để giúp bà con tiếp cận các phương thức sản xuất hiệu quả, Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Lạng Sơn thường xuyên tổ chức các đoàn đi tham quan, học hỏi mô hình tại nhiều địa phương trên cả nước. Qua đó, người dân có cơ hội mở rộng tầm nhìn, mạnh dạn đầu tư và áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất.
Những chuỗi liên kết ngày càng bền vững không chỉ giải quyết việc làm tại chỗ mà còn nâng cao thu nhập cho hàng nghìn hộ dân, đóng góp tích cực vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế của tỉnh – phấn đấu đạt 8% trong năm 2025 và tăng trưởng 2 con số giai đoạn 2026–2030.
Ông Lâm Văn Viên – Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Lạng Sơn – nhấn mạnh: “Chặng đường giảm nghèo bền vững vẫn còn nhiều thách thức. Ngay sau khi Sở được thành lập, chúng tôi đã khẩn trương kiện toàn tổ chức, triển khai kịp thời các chính sách để không làm gián đoạn Chương trình. Đặc biệt là nhóm chính sách hỗ trợ sinh kế, giúp người dân chủ động thoát nghèo.”